Khách hàng

Video Clip

Muỗi và một số bệnh truyền nhiễm

Sốt xuất huyết

Bệnh sốt xuất huyết do muỗi vằn Aedes egypti truyền bệnh, có thể xuất hiện quanh năm nhưng phát triển nhiều về mùa mưa, vì muỗi sinh sản nhanh trong mùa này. Bệnh hay gặp ở trẻ em, nhất là trẻ dưới 10 tuổi. Sốt xuất huyết có thể lây lan thành dịch rất nhanh.
Người nhiễm virus Dengue do muỗi cái thuộc giống Aedes đốt. Muỗi Aedes aegypti là vector truyền bệnh chủ yếu ở hầu hết các khu vực bệnh lưu hành. Muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày và chỉ có muỗi cái mới đốt người và truyền bệnh. Khi muỗi cái Aedes hút máu bệnh nhân nhiễm virus Dengue, virus này sẽ ủ bệnh trong cơ thể muỗi khoảng 8 đến 11 ngày. Trong khoảng thời gian sống còn lại sau đó, muỗi có nguy cơ truyền bệnh cho người. Khi virus vào cơ thể người, chúng tuần hoàn trong máu từ 2 đến 7 ngày. Trong khoảng thời gian này nếu muỗi Aedes hút máu thì virus được truyền cho muỗi. Người là ổ chứa virus chính ngoài ra người ta mới phát hiện ở Malaixia có loài khỉ sống ở các khu rừng nhiệt đới cũng mang virus Dengue. Aedes aegypti có nguồn gốc từ châu Phi. Loài muỗi này dần dần lan tràn ra hầu hết các khu vực có khí hậu nhiệt đới đầu tiên là nhờ tàu thuyền và sau đó có thể cả máy móc nữa. Ngày này có hai dưới nhóm của Aedes aegypti là Ae. aegypti queenslandensis, một dạng hoang dã ở châu Phi không phải là vector truyền bệnh chính và Ae. aegypti formosus là muỗi sống ở khu vực đô thị vùng nhiệt đới và là vector truyền bệnh chính. Trong quá khứ, muỗi Aedes aegypti phải nhờ vào các vũng nước mưa để đẻ trứng. Tuy nhiên ngày nay quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ồ ạt đang cung cấp cho muỗi những hồ nước nhân tạo để muỗi đẻ trứng dễ dàng hơn nhiều.
Aedes albopictus trước đây là vector truyền bệnh chính của Dengue và hiện nay vẫn còn là vector quan trọng ở châu Á. Loài muỗi này gần đây đã lan tràn đến khu vực Trung Mỹ, Hoa Kỳ và tại đây muỗi này là vector truyền bệnh quan trọng thứ hai. Trong khi muỗi Ae. aegypti formosus chủ yếu sống ở khu vực đô thị thì muỗi Aedes albopictus lại cư trú chủ yếu ở vùng nông thôn. Muỗi Aedes aegypti không truyền virus cho trứng trong khi muỗi Aedes albopictus thì có khả năng này.
Viêm não Nhật Bản
Bệnh viêm não Nhật Bản là một nhiễm trùng của hệ thần kinh trung ương. Tuỳ theo vị trí giải phẫu học, ngừơi ta chia ra gọi là viêm não hay viêm màng não. Viêm não chủ yếu làm ảnh hưởng đến chức năng tri giác. Người bệnh có triệu chứng hôn mê hay co giật, kích thích, bức rức.
Tác nhân truyền bệnh là muỗi Culicinea tritaeniorhyunchus, thường có ở nông thôn. Người là ký chủ trong chu trình truyền bệnh và thường trẻ em mắc bệnh nhiều hơn người lớn. Tỉ lệ tử vong từ 7-33% hay cao hơn nhưng tỉ lệ di chứng ngược lại với tỉ lệ tử vong . Với nhóm có tỉ lệ tử vong 33%, di chứng xuất hiện từ 3-14%. Ngược lại, với nhóm có tỉ lệ tử vong 7,4% thì di chứng lên đến 32%. Các bệnh nhân sống sót sau khi trải qua cơn cấp tính, 80% không có hy vọng hồi phục hoàn toàn. Các di chứng của bệnh thường là liệt dai dẳng, mất điều hòa trương lực, chậm phát triển trí tuệ và rối loạn tính cách.
Vì đây là bệnh do virus gây ra nên các hiểu biết bệnh học còn nhiều hạn chế. Việc điều trị dựa vào điều trị triệu chứng và tiêm phòng là chủ yếu.
Sốt rét
Bệnh sốt rét còn có các tên gọi là bệnh sốt rét cơn, bệnh sốt rét rừng, bệnh sốt rét ngã nước. Trong sách đông y gọi là " ngược tật" hay " nghịch tật".
Bệnh sốt rét là một bệnh truyền nhiễm lưu hành ở địa phương (có thể phát thành dịch) do kí sinh trùng sốt rét Plasmodium gây nên. Bệnh truyền nhiễm theo đường máu, chủ yếu do muỗi Anophen (côn trùng trung gian) truyền bệnh, biểu hiện điển hình bằng những cơn sốt. Bệnh phát triển có chu kì: sơ phát, tái phát và có hạn định nếu không bị tái nhiễm. Bệnh gây miễn dịch đặc hiệu nhưng không tuyệt đối và là một trong những bệnh có thuốc điều trị đặc hiệu. đến nay, vẫn còn là một bệnh khó chữa.
Sốt vàng da:
Là chứng bệnh sốt do siêu vi trùng thuộc họ Flaviviridae gây ra. Đây là một chứng bệnh sốt xuất huyết quan trọng tại châu PhiNam Mỹ mặc dầu hiện nay đã có vắc-xin hiệu nghiệm.
Sốt vàng từng gây nhiều trận dịch tàn khốc, giết hại hàng trăm ngàn người. Trong thế kỷ 18, sốt vàng da lan tràn tại Ý, Pháp, Tây Ban NhaAnh quốc. Vào thế kỷ 19, khoảng 300.000 người Tây Ban Nha chết vì sốt vàng. Trong thời kỳ cách mạng Haiti năm 1802 gần nửa đội quân Pháp bị sốt vàng chết. Sốt vàng tiếp tục gây tử vong khắp nơi cho đến thế kỷ 20 khi khoa học khám phá ra bệnh lây do muỗi đốt và nghiên cứu được phương cách phòng chống bằng vắc-xin.
Cuộc tìm kiếm vắc-xin ngừa sốt vàng tốn rất nhiều công sức và hy sinh của nhiều người, trong đó có bác sĩ Cuba Carlos Finlay và bác sĩ Mỹ Walter Reed. Tuy vậy hiện nay vẫn còn nhiều nước chậm tiến chưa được chủng ngừa. Tổ chức Y tế thế giới ước lượng trong năm 2001 200.000 người bị sốt vàng và 30.000 tử vong.
Bệnh sốt thung lũng Rift do virut RVF gây ra:
Virus RVF gây bệnh cho các động vật nuôi như trâu, bò, cừu, dê... Virus có thể tồn tại tự nhiên trong trứng muỗi một thời gian dài, trong điều kiện khô có thể tồn tại đến vài năm. Khi gặp điều kiện thuận lợi, trứng muỗi nở ra, lây lan virus cho động vật và người.
Người có thể nhiễm virus khi uống sữa tươi, ăn thịt chế biến chưa chín, tiếp xúc trực tiếp với gia súc bệnh. Đối với người nhiễm virus RVF, sau thời gian ủ bệnh từ 2 đến 6 ngày, bệnh nhân sẽ có triệu chứng giống cúm như sốt, đau đầu, đau cơ, đau người. Một vài bệnh nhân có thể có dấu hiệu của viêm não là cứng cổ, sợ ánh sáng, nôn ói... Các triệu chứng này xảy ra từ 1 đến 3 tuần sau khi xuất hiện triệu chứng ban đầu. Trường hợp nặng, bệnh nhân có thể xuất huyết, viêm não và mắc bệnh về mắt như giảm thị lực, thậm chí nôn ra máu, tiêu ra máu, chảy máu dưới răng, dưới da.
Khi bệnh nhân có xuất huyết thì tỉ lệ tử vong cao, có thể lên đến 50%. Những triệu chứng trên thường xuất hiện sau thời gian nhiễm bệnh khoảng 10 ngày.
Muỗi trung gian gây bệnh RVF là Aedes, trong đó có muỗi Aedes aegypti vốn gây bệnh sốt xuất huyết. Ngoài trung gian là muỗi, RVF cũng có thể được lây từ dịch tiết của động vật bệnh, virus xâm nhập vào người qua vết trầy xước. Do tác nhân gây bệnh là virus, nên đến nay chưa có thuốc đặc trị chữa RVF. Bệnh cũng chưa có thuốc ngừa. Biện pháp phòng ngừa là tránh tiếp xúc với động vật bệnh, ngủ mùng và tiêu diệt muỗi